Vũ Quần Phương
Câu đầu của bài thơ: Người về từ cõi ấy. Cõi ấy là đâu mà nhắc lại tới ba lần. Tự nhiên, trong tâm trí, người đọc cứ phải lần mò mà đoán lấy. Mới đầu đã ngờ ngợ, rồi mơ hồ nhận ra. Mỗi chi tiết một rõ. Đến ý thơ cuối thì khẳng định. Không những khẳng định được cõi ấy là đâu, mà còn cho thấy cái tính chất ghê gớm kinh hoàng của cõi ấy. Nói mà như không nói, tả mà như không tả. Tất cả hiện ra từ tâm trạng người về. Ngừoi ấy không giãi bày mà tâm trạng tự hiện lên dần qua từng chi tiết. Chi tiết đắc địa. Diễn đạt gọn sắc. Ngôn ngữ cô đúc, đối chọi. Rất hàm súc
Người về từ cõi ấy
Vợ khóc một đêm, con lạ một ngày
Vợ thì khóc, con thì lạ. Sao thế ? Thì thử đoán xem cõi ấy phải là cõi nào.Vợ khóc một đêm, con lạ một ngày. Chi tiết đêm, ngày và đều chỉ là một. Thêm một nữa thôi để tiễn biệt vĩnh viễn cái chặng vừa đi qua. Ngày mai sang chặng khác.. Câu thơ tám chữ, tách đôi thành bốn chữ cặp díp, chứa ba cặp ý sóng đôi nhau: vợ-con, khóc-lạ, một đêm-một ngày đủ cho thấy tâm trạng mọi thành viên một gia đình. Ngôn ngữ không thể gọn hơn mà diễn tả đúng nỗi lòng vợ con đến thế quả là một quan sát già dặn. Nhưng kinh ngạc hơn là từ nỗi thông hiều lòng vợ con ấy cho ta thấy sự sâu sắc trong cõi lòng người về. Anh hiếu nỗi chịu đựng của vợ và sự ngây thơ đến cay đắng của con không chỉ ở khoảnh khắc găpk mặt ấy mà còn ở cả những thàng ngày đằng đẵng khi anh vắng mặt. Thơ hiện đại mà hàm súc như cổ thi.
Ba lần nhắc Người về từ cõi ấy là ba lần quan sát phản ứng người mình gặp. Vợ con rồi, bây giờ đến người quen:
Bước vào cửa người quen tái mặt.
Sao mà phải tái mặt. Chắc bạn đọc thêm căn cứ để đoán ra cái cõi ấy của một thời hoặc một sách vở nào.
Sau người quen, đến người không quen:
Giữa phố đông người nhồn nhột sau gáy
Hình như có cặp mắt nào đang kín đáo dõi theo mình từ phía sau. Không dám quay lại nhưng linh cảm thấy rõ lắm nên mới nhồn nhột Cảm giác nhồn nhột sau gáy là một phản xạ có điều kiện. Kiểu như người đã một lần ăn khế chua, sau chỉ nghe nói tiếng khế đã thấy tưa nước miéng. Kỳ thức đâu có khế, cũng như chẳng có ai dõi nhìn anh cả. Nhân vật nhầm nhưng tác giả không nhầm, ông đã tả thành công nỗi ám ảnh sợ hãi của người về
Ba điệp khúc, sáu câu ấy là một mảng ý. Mảng ý thứ hai là bốn nỗi ám ảnh trải theo thời gian, một năm, hai năm, ba năm, mười năm với bốn chi tiết, tinh vi đến lạnh người:
Một năm sau còn nghẹn giữa cuộc vui
Hai năm còn mộng toát mồ hôi
Ba năm còn nhớ một con thạch thùng
Mười năm còn quen ngồi một mình trong tối
Một, hai, ba rồi nhảy vụt lên mười mà cái chữ còn vẫn nhũng nhẵng theo sau. Cái ám ảnh của cõi ấy khéo phủ lên cả đời người. Những chi tiết : nghẹn giữa cuộc vui, mộng toát mồ hôi, nhớ một con thạch thùng, quen ngồi một mình trong tối là những chi tiết nội tâm, cho thấy một thân phận, một nỗi khủng khiếp, một sự cô đơn.
Bốn câu thơ cuối thuộc mảng ý thư ba: nỗi sợ. Bất cứ lúc nào cũng nơm nớp. Một hôm nào đấy thấy có ai nhìn, một đêm nào đấy thấy có ai hỏi. Nhìn thì trân trối. Hỏi thì bâng quơ nên mới làm anh chột dạ. Bạn đọc ngờ rằng cái nhìn, cái hỏi này vốn tự nhiên bình thường, nhưng với người về, có lẽ thần hồn nát thần tính, nên mới thấy nó trân trối và có vẻ bâng quơ như cạm bẫy. Ý thơ cuối cùng khẳng định nỗi ngờ ngợ của người đọc là có lý. Chỉ một cái vỗ vai vu vơ mà anh chàng giật thót người.
Tội nghiệp quá. Kinh sợ quá. Bút pháp tả tâm trạng ở bài thơ này thật tài. Nói bóng mà ra hình, tả tình mà ra việc. Không chất chứa trong lòng không hiện ra ngòi bút được như thế.
6/2007